Tin tức
Trang chủ Tin tức Ngành cơ khí chế tạo: Làm sao thoát kiếp gia công?
Trang chủ Tin tức Ngành cơ khí chế tạo: Làm sao thoát kiếp gia công?
Để thoát kiếp gia công, một số doanh nghiệp Việt Nam đang đi từng bước nhỏ để được chen chân vào chuỗi giá trị toàn cầu của các tập đoàn lớn trên thế giới. Ba câu chuyện dưới đây khắc họa những nét tươi sáng cho triển vọng kiến tạo vị thế mới của ngành cơ khí chế tạo Việt Nam.
Câu chuyện thứ nhất
Hợp tác với các đối tác lớn trong ngành chế tạo cơ khí, công nghiệp nặng trên thế giới như GE, Mitsubishi Heavy, Hyundai để từng bước tham gia chuỗi sản xuất toàn cầu của những tên tuổi này là một định hướng lâu dài đang được Tổng công ty Lắp máy Việt Nam (Lilama) đeo đuổi.
Ông Lê Văn Tuấn, Tổng Giám đốc Lilama tâm sự: “Lâu nay Lilama đã là đối tác, là nhà thầu phụ có năng lực và được tin cậy của nhiều doanh nghiệp nước ngoài, nhưng chúng tôi ý thức là phải nâng tầm những mối quan hệ này. Làm được vậy sẽ giúp mình trưởng thành nhanh và bài bản hơn.”
Cũng là nhà thầu phụ, nhưng với lĩnh vực hoạt động là cơ khí chế tạo và lắp máy, việc các nhà thầu nước ngoài tìm đến với Lilama chính là bởi trình độ tay nghề của người thợ.
Tại dự án Nhà máy lọc dầu Dung Quất - dự án đòi hỏi rất cao về chất lượng, những người thợ hàn của Lilama với chứng chỉ nghề bậc cao đã làm hài lòng các nhà thầu ngoại ở các gói thầu đường ống dẫn sản phẩm hay các bể chứa xăng dầu.
Không ít chi tiết cơ khí phi tiêu chuẩn của công trình cũng đã được gia công, chế tạo tại các nhà máy của Lilama.
Ngoài việc cử cán bộ, kỹ sư, công nhân kỹ thuật theo học các khóa chuyên sâu nâng cao, tiếp thu công nghệ mới tại các trường đào tạo ở trong nước và nước ngoài, Lilama còn mạnh dạn bỏ ra hàng trăm tỷ đồng để mua thiết bị hiện đại cho các nhà máy cơ khí, chế tạo để tự gia công các sản phẩm cơ khí chất lượng cao, đạt tiêu chuẩn của những nước có nền công nghiệp tiên tiến như Anh, Mỹ, Nhật Bản, Ðức.
“Có những đối tác như GE đã khảo sát năng lực của các doanh nghiệp thuộc Lilama để tiến tới đặt các đơn hàng, mở rộng sản xuất của họ tại Việt Nam. Đơn hàng thì không thiếu, nhưng Lilama hướng tới các đơn hàng chất lượng cao, giá trị gia tăng lớn hơn để tiến bước sâu hơn vào ngành công nghiệp cơ khí thế giới,” ông Tuấn cho biết.
Câu chuyện thứ hai
Cũng không nề hà các đơn hàng giản đơn thuở ban đầu, ông Trần Bá Dương, Chủ tịch kiêm Tổng Giám đốc Công ty cổ phần Ôtô Trường Hải (Thaco) cho hay, Thaco nhận cung cấp thùng xe cho một số dòng xe tải nhãn hiệu Kia khi xuất khẩu sang thị trường khu vực, bởi chi phí ở Việt Nam rẻ hơn so với Hàn Quốc.
Khác với nhiều người quan niệm “rẻ thì không làm,” ông Dương lại nghĩ, Việt Nam mới khởi đầu ngành công nghiệp ôtô thì phải biết chấp nhận đi từ những bước thấp nhất để tiến dần lên trình độ cao hơn, thay vì lao ngay vào công nghệ cao, phức tạp và đòi hỏi vốn đầu tư lớn.
Một số công ty con của Thaco trong các lĩnh vực công nghiệp phụ trợ của ngành ôtô cũng đã được thành lập để cung cấp linh phụ kiện cho xe ôtô nhãn hiệu Kia và Thaco khi sản xuất, lắp ráp tại Việt Nam.
Dĩ nhiên, Thaco Group không dừng lại ở việc gia công, chế tạo các chi tiết đơn giản. Ước mơ về một khu công nghiệp cơ khí ôtô tại Khu kinh tế mở Chu Lai vẫn đang được ông Dương kiên trì triển khai từng bước.
Hiện nay, Thaco đang đầu tư vào sản xuất động cơ, trước mắt là cho xe tải, với bản quyền công nghệ được cung cấp bởi Kia Motor, nhằm gia tăng giá trị sản xuất tại Việt Nam.
Câu chuyện thứ ba
Phấn đấu đưa Việt Nam tham gia vào chuỗi sản xuất toàn cầu cũng là câu chuyện tại Alstom.
Đã có bốn hợp đồng cung cấp thiết bị cơ điện cho các dự án nhiệt điện khí tại Trung tâm Điện lực Phú Mỹ những năm 2000, Alstom đang tiếp tục gia tăng sự có mặt của mình ở Việt Nam thông qua các dự án thủy điện lớn như Sơn La, Lai Châu. Thành công về đích sớm ba năm của Nhà máy thủy điện Sơn La với công suất 2.400MW - lớn nhất Đông Nam Á - đã nâng thương hiệu Alstom trong vai trò nhà cung cấp thiết bị cơ điện thêm nhiều cấp.
Tuy nhiên, mối quan tâm của Alstom tại Việt Nam không chỉ đơn thuần là bán thiết bị cho các nhà máy điện.
Vào tháng 5/2012, Alstom đã bắt tay với Tập đoàn Điện lực Việt Nam (EVN) để thành lập Liên doanh Dịch vụ Năng lượng Alstom-Phú Mỹ, cụ thể là xây dựng một xưởng sửa chữa tuabin khí hiện đại tại Trung tâm điện lực Phú Mỹ, Bà Rịa-Vũng Tàu. Đây là xưởng sửa chữa tua-bin khí đầu tiên tại Việt Nam và cũng là công xưởng đầu tiên của Alstom tại khu vực châu Á trong lĩnh vực này.
Một quan chức của Alstom Việt Nam cho hay, các tuabin khí có cánh phủ gốm, khi hoạt động trong điều kiện nhiệt độ cao 1.000 độ C sẽ phải mang ra kiểm tra và bảo dưỡng.
Việc bóc lớp gốm ra, kiểm tra lớp thép rồi bọc phủ lại, khoan lại các đường làm mát của cánh tuabin là công việc được xếp vào hàng công nghệ cao, đa phần làm bằng robot.
Vì vậy, quyết định chuyển xưởng này sang Việt Nam là để phục vụ thị trường châu Á-Thái Bình Dương chứ không chỉ riêng Việt Nam, không đơn thuần là vì để có giá rẻ, mà còn mang những ý nghĩa chiến lược nhất định đối với ngành công nghiệp của Việt Nam.
“Năm 2013, xưởng sửa chữa này sẽ đi vào hoạt động, tạo thêm công ăn việc làm mới, thêm các đơn hàng xuất khẩu, đóng góp cho nước sở tại. Có thể quy mô ban đầu nhỏ nhưng sẽ nâng dần trong tương lai, đặc biệt tạo ra những động lực nhất định cho ngành công nghiệp địa phương trong việc tham gia vào dây chuyền sản xuất toàn cầu của các tập đoàn lớn,” vị quan chức của Alstom Việt Nam cho biết.
Đi xa bằng những bước nhỏ
Nhìn nhận những thách thức mà các doanh nghiệp Việt Nam phải đối mặt hiện nay, Phó Thủ tướng Chính phủ Hoàng Trung Hải thẳng thắn thừa nhận: cạnh tranh đã ngay ở đầu nhà rồi.
Nếu doanh nghiệp trong nước không đáp ứng được, sẽ buộc phải mở cửa cho doanh nghiệp bên ngoài vào. Lúc đó, doanh nghiệp Việt Nam sẽ phải làm thuê ngay trên chính thửa ruộng của mình, trong chính lĩnh vực mà mình vẫn được biết đến là có lợi thế.
Muốn biết mình đang ở đâu, doanh nghiệp Việt Nam phải so sánh với các tập đoàn cùng ngành nghề, cùng lĩnh vực trên thế giới, chứ không thể bằng lòng với những gì mình đang có.
“Người Việt Nam cần cù, thông minh, nhưng nếu không biết cúi đầu xuống để học và tiến lên thì vẫn luôn thua,” Phó Thủ tướng Hoàng Trung Hải nhắn nhủ./.
Phát triển ngành công nghiệp phụ trợ là một trong những chính sách ưu tiên hàng đầu của Chính phủ Việt Nam và được kỳ vọng sẽ làm thay đổi bộ mặt của ngành công nghiệp Việt Nam.
Thế nhưng, thời gian qua và nhất là khi Việt Nam đã gia nhập WTO, các doanh nghiệp phụ trợ của ta dường như vẫn loay hoay tìm đường hội nhập...
Công nghiệp phụ trợ là một thuật ngữ mới và hiện đang rất "nóng" ở Việt Nam. Nó được xem như công việc giúp cho việc lắp ráp các sản phẩm cuối cùng thông qua cung cấp các bộ phận chi tiết, linh kiện sản phẩm hàng hoá trung gian khác. Điều đặc biệt là công nghiệp phụ trợ chủ yếu do các doanh nghiệp vừa và nhỏ đảm nhiệm. Và các chuyên gia cảnh báo rằng, trong quá trình hội nhập, các doanh nghiệp vừa và nhỏ của ngành công nghiệp sẽ là khối chịu thiệt thòi nhất.
Khai thông cho doanh nghiệp phụ trợ nội địa?
Theo tính toán của các chuyên gia đối với một số ngành thì giá trị gia tăng trong sản xuất công nghiệp rơi vào công nghiệp phụ trợ tới 90-95% tuỳ theo tính chất kỹ thuật ngành. Nếu phân theo mức độ, vai trò tham gia vào chuỗi giá trị sản xuất thì ngành công nghiệp phụ trợ được chia làm 3 tầng.
Tầng thứ nhất là hệ thống công nghiệp phụ trợ "ruột". Tức là những hãng được hãng chính bảo trợ và cung cấp tất cả những yêu cầu cơ bản nhất để tạo ra những chi tiết đặc trưng nhất của sản phẩm. Đây là khu vực mà theo nhận định của các chuyên gia, cơ hội tham gia của doanh nghiệp phụ trợ nội địa của Việt Nam không có.
Hai tầng còn lại là hệ thống phụ trợ hợp đồng và thị trường. Tức là doanh nghiệp sản xuất ra sản phẩm linh kiện để bán trên thị trường hoặc tham gia các hợp đồng cung cấp. Với hai tầng này, các doanh nghiệp vừa và nhỏ cũng rất khó tham gia vào chuỗi này.
Thực tế, khi Việt Nam gia nhập WTO, hàng rào thuế quan giảm xuống và các chi tiết cùng linh kiện theo đó cũng được giảm thuế. Chi phí trở nên rẻ hơn, do đó các nhà đầu tư lắp ráp thường đi tìm mua các chi tiết linh kiện từ bên ngoài vào. Và như vậy, một lần nữa lại "bóp chết" cơ hội của doanh nghiệp vừa và nhỏ ở địa phương.
Khó khăn lớn nhất mà các doanh nghiệp vừa và nhỏ sản xuất các mặt hàng phụ trợ đang đối mặt chính là họ rơi vào tình thế sản xuất các linh kiện thụ động phải chờ sự chấp thuận của hãng lớn mặc dù bản thân họ rất linh hoạt. Hơn nữa, ở Việt Nam công nghiệp phụ trợ còn hết sức đơn giản, quy mô nhỏ lẻ, chủ yếu sản xuất các linh kiện chi tiết giản đơn, giá trị gia tăng thấp và có sự chênh lệch về năng lực phụ trợ giữa các doanh nghiệp vừa và nhỏ nội địa của Việt Nam với các yêu cầu của các hãng sản xuất toàn cầu.
Để sản xuất ra một chiếc ôtô, hãng Toyota cần có 1.600 nhà cung cấp các loại chi tiết, linh kiện. Hãng Meccedes cũng có khoảng 1.400 doanh nghiệp cung cấp. Như vậy, chỉ cần vài hãng lắp ráp cuối cùng nhưng họ cần hàng ngàn doanh nghiệp sản xuất trước đó. Một chuỗi các hoạt động của ngành công nghiệp phụ trợ này chủ yếu lại do các doanh nghiệp vừa và nhỏ đảm nhận. Họ gặp rất nhiều khó khăn khi tham gia vào chuỗi toàn cầu để đi đến sản phẩm cuối cùng của các hãng.
Xem ra, đây là con đường gập ghềnh và nhiều gian nan cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ nội địa làm phụ trợ để có thể bứt phá giữa yêu cầu cao của các hãng chính và thực trạng thấp kém của các doanh nghiệp vừa và nhỏ sản xuất các linh kiện.
Các đây 2 năm tại Tp.HCM cũng đã tổ chức "hội chợ ngược" lần thứ nhất về công nghiệp phụ trợ mà ở đó các doanh nghiệp Nhật Bản tìm các nhà cung cấp Việt Nam. Tại hội chợ này, các hãng chính đến và đưa các linh kiện đặt hàng để tìm các doanh nghiệp trong nước của Việt Nam có khả năng sản xuất được thì ký hợp đồng tham gia vào chuỗi sản xuất. Đến nay, sau hai năm chưa hợp đồng nào được ký.
Và tại Hội chợ lần thứ hai được tổ chức ở Hà Nội ngày 13-14/11 vừa qua, được đánh giá rầm rộ hơn với 128 doanh nghiệp trong đó có 115 doanh nghiệp phụ trợ nội địa mang chi tiết linh kiện ra trưng bày cho các nhà lắp ráp xem. Nhưng liệu có doanh nghiệp nào có thể tham gia được vào việc cung cấp cho các hãng chính? Không biết sau đó sẽ có hợp đồng nào được ký?!
Một số chính sách gợi mở
Để các doanh nghiệp vừa và nhỏ làm phụ trợ có thể "chen chân" được vào chuỗi giá trị của các hãng lớn đang được xem như yếu tố cốt tử của nền công nghiệp Việt Nam. Giá trị gia tăng hay nói rộng hơn là GDP của Việt Nam trong tương lai tuỳ thuộc vào chính khối này.
Theo GS.TS Phan Đăng Tuất, Viện trưởng Viện nghiên cứu chiến lược chính sách công nghiệp, Bộ Công Thương, con đường tham gia vào chuỗi giá trị toàn cầu của các doanh nghiệp vừa và nhỏ của Việt Nam còn gập ghềnh. Để mở rộng thị trường quốc tế, đòi hỏi sự vào cuộc mạnh mẽ đồng bộ mà trong đó ông Viện trưởng Viện nghiên cứu chiến lược chính sách công nghiệp đã đặc biệt nhấn mạnh vai trò của 4 chủ thể chính tham gia "cuộc chơi" này.
Thứ nhất, Chính phủ cần nhận diện lại vấn đề và tham gia tích cực vào cuộc chơi này bằng cách lập ra một cơ quan đầu mối để mối lái cho các doanh nghiệp cung cấp chi tiết linh kiện. GS. Phan Đăng Tuất nhấn mạnh: "Không nên chờ nhà đầu tư nước ngoài đến mở hội chợ ngược nữa mà Chính phủ phải vào cuộc".
Trên thực tế, nước láng giềng Thái Lan đã làm rất tốt việc này trong thời kỳ công nghiệp hoá của họ. Họ đã có một cơ quan nhà nước luôn theo dõi việc hỗ trợ doanh nghiệp vừa và nhỏ để "chui" vào các hãng chính. Trong khi hiện nay, ở Việt Nam "đến các cơ quan hiện hành, hỏi ai phụ trách việc hỗ trợ doanh nghiệp vừa và nhỏ đều không có ai trả lời cả", GS. Tuất nói.
Thứ hai, tham gia vào cuộc chơi chính là các nhà lắp ráp, các hãng lớn. Cuộc chơi phải có hai chiều, trong đó chiều từ các hãng lớn đóng vai trò cực kỳ quyết định. Họ là những người đặt ra hợp đồng, đặt ra bài toán và họ là những người có năng lực hỗ trợ các doanh nghiệp vừa và nhỏ nội địa trong việc cung cấp linh kiện.
Vai trò thứ ba chính là các doanh nghiệp phụ trợ nội địa. Theo GS. TS Phan Đăng Tuất, chính quyền địa phương đóng vai trò rất quan trọng thông qua việc quan tâm đến chính sách khuyến công địa phương, khuyến khích các doanh nghiệp phụ trợ phát triển ở quê hương mình.
Thứ tư là vai trò của các tổ chức hỗ trợ. Đánh giá cao vai trò của các nhà tài trợ song Viện trưởng Tuất cũng để ngỏ 4 câu hỏi mong được các nhà tài trợ suy nghĩ. Đó là các nhà tài trợ sẽ hỗ trợ cái gì cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ phụ trợ nội địa? Hỗ trợ như thế nào? Khi nào? Và bằng công cụ gì?